Lựa chọn theo lĩnh vực

Thái Tuế, Tam Sát, Ngũ Hoàng Hội Lực Sĩ

Huyền Không Phi Tinh 19,216 lượt xem

Thái Tuế, Tam Sát, Ngũ Hoàng Hội Lực Sĩ

Ngũ Hoàng hội Lực Sĩ , năm Đinh Hợi tại phương Cấn , năm này âm dương trạch thuộc phương này kỵ động .
Mậu Kỷ Đô Thiên đại sát từ đó mà suy ra, dùng ngũ hổ độn lấy lưu niên mà suy ra .
Như năm Bính Tuất, Bính Tân khởi Canh Dần, Tân Mão, Mậu tại Tuất, Kỷ tại Hợi , Tuất Hợi kẹp Càn Đô Thiên , như thế Tuất Càn Hợi phương là Mậu Kỷ Đô Thiên Đại Sát .
Năm Đinh Hợi, năm Đinh Nhâm khởi Nhâm Dần, Quý Mão, Mậu tại Thân, Kỷ tại Dậu, Thân Dậu kẹp Canh Đô Thiên, như thế Tuất Canh Dậu Tân phương là Mậu Kỷ Đô Thiên Đại Sát .
Còn lại cứ thế mà suy .


Cách Tính Lực Sĩ :
Hợi Tý Sửu tại Cấn ( Cách nhớ là Sửu tiến một bước )
Dần Mão Thìn tại Tốn (Cách nhớ là Thìn tiến một bước )
Tỵ Ngọ Mùi tại Khôn (Cách nhớ là Mùi tiến một bước )
Thân Dậu Tuất tại Càn (Cách nhớ là Tuất tiến một bước ).



Nói Thái Tuế , tức là Tuế Tinh , năm Tý Thái Tuế ở Tý , năm Sửu ở Sửu …Cứ thế mà suy . Trên đây là lấy 12 địa chi luận thời gian .

“Thái Tuế” tức là cực Tôn Quý , chỗ phương vị đi vào là tuyệt đối tôn nghiêm , các phương vị khác chỉ là phương vị bên dưới . Như thế cúng ta nên biết trước phương Thái Tuế mà động thổ , chủ hung họa . Vì phương đối diện Thái Tuế gọi là phương Tuế Phá , tức là bề tôi phạm vào vua . Năm Tý , phương Tý là Thái Tuế thì phương Ngọ là Tuế Phá . Các năm khác cúng tính tương tự .

Thái Tuế có thể ở Tọa không thể ở Hướng , đó là phép tắc chọn ngày , có Ất Thái Tuế vào Sơn là Cát , trực xung Thái Tuế phương , tất phạm tuế phá , tuế xung . Thường khi dựng nhà , chôn cất , không nên khinh thường ở nơi đầu Thái Tuế mà động thổ , động tất hung , nếu Ất Thái Tuế chuyển vào tọa sơn cùng chọn ngày , chọn đúng ngày Thái Tuế tọa phương là Cát , cần tránh chọn ngày phương Tuế Phá là hung . Ví dụ như năm tý dựng nhà , tạo táng tại tọa sơn Tý , tất Cát tinh cao chiếu ; còn nếu dựng nhà , tạo táng tại Ngọ , tất phạm vào Thái Tuế , chủ hung .

Hoặc một số người có hỏi : Thái tuế là chỉ xung Chi Sơn , càn các sơn bên cạnh không xung có đúng không ?

Kỳ thực Thái Tuế ngoài xung Chi Sơn còn xung luôn các Sơn bên cạnh . Như năm Tý xung Ngọ sơn , kiêm xung luôn Bính Sơn cùng Đinh Sơn . tuy kiêm xung nhẹ hơn so với chính xung , những nhất định ba chỗ đó không thể dùng . 60 Giáp Tý do 12 địa chi và 10 thiên can hợp thành mà 24 sơn cúng có các Sơn Can Chi , ứng với chỗ Thái Tuế đi vào cho nên các Sơn Chi bị xung thì các Can , Duy cũng bị xung . Nhưng thiên Can thì lực nhẹ mà địa Chi thì nặng , cho nên tất đều lấy Địa Chi để bổ vào Tọa Sơn , dùng Thiên Can bổ vào Mệnh Vận . Trong lúc lựa chọn , như năm Giáp Tý chính xung Ngọ Sơn , kiêm xung Bính Sơn , Đinh Sơn , mà giáp xung Canh sơn , thế là không kỵ , nguyên nhân bởi Canh Sơn cách Tuế Phá khá xa , cho nên không tai hại .

Tam Sát lấy Thủy Hỏa Mộc Kim bốn Cục phân làm bốn tổ hợp , 12 Địa Chi tức là mỗi tổ hợp có 3 Địa Chi . Như Thân Tý Thìn là Thủy Cục ; Dần Ngọ Tuất là Hỏa Cục ; Hợi Mão Mùi là Mộc Cục ; Tỵ Dậu Sửu là Kim Cục .

Theo Thời Không Luận mà nói , Thủy Cục vượng ở phương Bắc , mà Bắc xung với phương Nam , Nam phương tất sẽ là Sát của Bắc Phương Thủy Cục . Tất cả theo đó mà suy .
Không Gian không thể xung phạm Thời Gian , nếu không tất là Sát . Như Chi năm , Chi tháng , Chi ngày , Chi giờ là Thân Tý Thìn Thủy Cục , vượng ở Bắc Phương Thủy Cục , tất khi dựng nhà , tạo táng tối kỵ Tọa Sơn là Hỏa Cục Dần Ngọ Tuất 3 sơn Chi , kiêm xung Bính Sơn cùng Đinh Sơn , tất cả đều là Sát Phương .

Nếu lấy năm sinh của chủ nhà để luận , sinh năm Giáp Tý tất là mệnh Giáp Tý , nên Giáp Tý mệnh không dùng ngày Ngọ , giờ Ngọ , cũng kỵ Canh Ngọ , cùng Giáp Ngọ bởi đều là chính xung thường gọi là Thiên Xung Địa Khắc , lực xung rất mạnh . Giáp Tý với Giáp Ngọ là Thiên Can tương đồng , Địa Chi tương xung , gọi là Thiên Tỷ Địa Xung cũng là Đại Hung .

Tên của Tam Sát , gồm thứ tự trước là Tuế Sát , sau là Kiếp Sát , chính xung là Tai Sát . Mệnh Sát lấy Tuế Sát làm chủ , mệnh Thân Tý Thìn , sát tại ngày Mùi , giờ Mùi . Cứ thế mà suy ra. Tam Hợp dụng thần có hai câu có thể gọi là “Thiên Kinh Địa Nghĩa” là “Thái Tuế khả tọa bất khả hướng” ; “Tam Sát khả hướng bất khả Tọa” nếu như động thổ ngay chỗ Thái Tuế đóng tất là tai họa đến ngay. Có lúc Thái Tuế đến âm dương trạch mà lại có Phong Thủy tốt thì sẽ nghiệm tốt, nếu Thái Tuế đến trạch hung tất phạm hung, tức là gặp cát sẽ cát, gặp hung thêm hung.

“Thái Tuế”, “Tam Sát” mà xung khắc là không phải không có cách gỡ, bởi sát tuy nghiêm trọng, nhưng bằng cách chọn ngày, chọn dụng Thần thì có thể khắc thắng, nguyên nhân là vì Địa Lý và Thiên Thời đều nên coi trọng, bởi vì sự hưng suy của Địa Lý rất là lâu dài, cho nên ứng nghệm chậm, thiên thời mới đó mà họa phúc đã vào cửa, nghiệm rất nhanh. Cho nên Tuyết Tâm Phú có nói : “ Sông núi có chút sai sót, không làm giảm bớt phúc dày của Chân Long, năm tháng có chút thất ý, ngược lại cát địa hóa tai ương.” Trong việc chọn Dụng Thần chọn ngày giờ, có thể dùng Thiên Nguyên Ô Thố tìm ra Chân Thái Duong, Thái Âm đến hướng đến phương hóa gải, Nếu dùng được Thiên Nguyên Ô Thố tất không sợ Thái Tuế, Tam Sát, Âm Phù, Không Vong, Thoái Khí, Kim Thần, Niên Khắc, Áp Mệnh, nếu gặp Ngũ Hoàng chính quan sát hoặc Ngũ Hoàng hội lực sĩ, tất thì không theo đó mà dùng được. Nhớ kỹ !

Bởi vì Ngũ Hoàng là chính Quan Sát, nơi nó đến trong tám phương chẳng lưu tình, nên nó là sao tối hung, tàn hại tất cả sinh linh. Lực Sĩ cũng là Thần tối hung ác, nắm trong tay quyền chém giết ghê gớm, nếu hội cùng Ngũ Hoàng, phạm nó thì sầu bi, chủ nhà có thể chết, nhớ không thể phạm.

Phongthuy.com.vn


Huyền Không Phi Tinh liên quan khác

Đăng ký tư vấn dịch vụ

Chào bạn. 👋 Hãy để lại thông tin của bạn. Chúng tôi sẽ liên hệ cho bạn trong thời gian sớm nhất.